Sống lại tinh thần “Đâu có giặc là ta cứ đi”

Bảo Ngân

16/10/2025 10:21 GMT+7

VTV.vn - Cuốn hồi ký của liệt sỹ Lê Văn Dỵ làm sống lại những trang sử hào hùng của quân đội ta về Chiến cục Đông Xuân 1953-1954 nói chung, Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng.

Đại diện gia đình Liệt sỹ tặng cuốn sách "Đâu có giặc là ta cứ đi" cho các đại biểu

Đại diện gia đình Liệt sỹ tặng cuốn sách "Đâu có giặc là ta cứ đi" cho các đại biểu

Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi – câu hát trong bài Hành quân xa của nhạc sỹ Đỗ Nhuận đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho quân và dân ta trong suốt những năm tháng kháng chiến.

Ít ai biết rằng nguồn cảm hứng cho bài hát này lại đến từ câu nói của một người anh hùng. Tác giả câu nói đó là Anh hùng liệt sỹ Lê Văn Dỵ (1926 -1970), quê tại xã Mê Linh, thành phố Hà Nội, là 1 trong 33 cán bộ, chiến sỹ đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc tại mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954.

Ngày 15/10, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam (Hà Nội), buổi giới thiệu cuốn hồi ký Đâu có giặc là ta cứ đi của Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, liệt sỹ Lê Văn Dỵ đã mang đến nhiều cảm xúc đặc biệt với khách mời tham dự.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa chia sẻ, đây là một cuốn hồi ký đặc biệt. Qua từng trang sách, dòng chữ, người đọc không chỉ tiếp cận được những thông tin giá trị mà còn sống dậy những cảm xúc lịch sử hào hùng, những năm tháng mà người lính luôn sẵn sàng với tinh thần "Đâu có giặc là ta cứ đi".

Sống lại tinh thần “Đâu có giặc là ta cứ đi”- Ảnh 1.

Bìa sách "Đâu có giặc là ta cứ đi"

Cuốn sách làm sống lại những người thật, việc thật, những trang sử hào hùng của quân đội ta về Chiến cục Đông Xuân 1953-1954 nói chung và Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng, mà tác giả là người trong cuộc.

Những trận đánh, những câu chuyện đời sống của bộ đội vô cùng sinh động, có buồn, có vui và đầy tinh thần lạc quan cách mạng sống dậy trong từng trang viết. Câu chuyện nào cũng thấm đẫm tình người, tình đồng chí, tình quân dân và  tinh thần đoàn kết đặc biệt Việt - Lào anh em.

Ngày 17/3/1965, chiến sỹ Lê Văn Dỵ viết hồi ký xong nội dung phần giai đoạn chống thực dân Pháp. Khi bắt đầu viết những dòng đầu tiên "Trận đầu trên đất bạn" thì nhận được lệnh cùng đơn vị lại vượt Trường Sơn sang Lào tiếp tục chiến đấu. Những trang bản thảo còn dở dang đành phải gửi lại ở hậu cứ Mộc Châu, vì cuộc chiến ngày càng khốc liệt hơn.

Ngày 13/3/1970, ông đã anh dũng ngã xuống tại chiến trường Lào, khi đang đảm nhiệm trọng trách Phó Ban Tác chiến Sư đoàn 316, giữa lúc Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất.

Bản thảo tập hồi ký dở dang mang tên Đường tôi đi của Liệt sỹ Lê Văn Dỵ đã trở thành di vật, được đồng đội gửi về cho gia đình và sau này, được giới thiệu đến độc giả.

Sống lại tinh thần “Đâu có giặc là ta cứ đi”- Ảnh 2.

Ảnh: BTC

Bản thảo được tặng cho Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, được in thành sách lần đầu năm 2009 với tên Đâu có giặc là ta cứ đi, tái bản, bổ sung năm 2014. Tuy nhiên, những lần in đầu không có tên tác giả là liệt sĩ Lê Văn Dỵ, hoặc chỉ đứng chung tên tác giả cùng những người khác.

Nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), Đâu có giặc là ta cứ đi được Nhà xuất bản QĐND chỉnh sửa, bổ sung thêm tư liệu và tái bản, với độ dày 324 trang.

Trong lời tựa cuốn sách cho lần xuất bản năm 2009, Chính ủy Trung đoàn 176 Đại đoàn 316 (1953-1954) Hoàng Tiêu Sơn viết: … Cuốn hồi ký của anh mãi mãi không kịp hoàn thành và quyết tâm "Đâu có giặc là ta cứ đi" của anh đã vĩnh viễn khép lại trong buổi hoàng hôn ngày 13 tháng 3 năm 1970. Anh đã anh dũng hi sinh giữa lúc Chiến dịch Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất, khi đơn vị và đồng đội đang cần anh nhất; và anh chuẩn bị bước vào tuổi 44- độ tuổi hứa hẹn lập nhiều chiến công mới, hiến dâng cho Tổ quốc...

Câu nói của Liệt sĩ Lê Văn Dỵ - Đâu có giặc là ta cứ đi  từ chiến trường ác liệt, đã trở thành khẩu hiệu, thành giai điệu đi cùng năm tháng trong lòng quân dân cả nước.

Tác phẩm cũng là lời tri ân với hậu phương – bà Hoàng Thị Hừu (1940–2020), vợ của liệt sĩ Lê Văn Dỵ. Quê ở Nho Quan (Ninh Bình), bà kết hôn với ông năm 1955. Khi chồng hy sinh năm 1970, bà mới 30 tuổi, một mình ở vậy nuôi 5 người con khôn lớn, không đi bước nữa. Hai người con của bà từng tham gia quân đội, trong đó một người là thương binh trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Sự hy sinh thầm lặng của bà là hình ảnh tiêu biểu cho hàng ngàn người vợ, người mẹ Việt Nam trong chiến tranh – bình dị, kiên cường và xứng đáng được tôn vinh.

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bình luận không đăng nhập

Bạn không thể gửi bình luận liên tục.
Xin hãy đợi 60 giây nữa.