Nỗ lực duy trì đơn hàng xuất khẩu quý cuối năm
Tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2025
Theo số liệu thống kê kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2025, nền kinh tế tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III ước tính tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước, đưa kết quả GDP cả 9 tháng qua ước tăng 7,85% so với cùng kỳ. Trong đó khu vực dịch vụ tăng 8,49%, đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. 9 tháng, Việt Nam đón trên 15,4 triệu lượt khách quốc tế (tăng 21,5% so với cùng kỳ năm 2024).
Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP ước tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng ở cả 34 địa phương. Xuất nhập khẩu 9 tháng ước đạt khoảng trên 680 tỷ USD, tăng hơn 17% so với cùng kỳ. Giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng ước cao hơn 6% về tỷ lệ và hơn 146.000 tỷ đồng về số tuyệt đối. Thu hút FDI 9 tháng ước đạt hơn 28,5 tỷ USD, tăng 15,2%.
Tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt hơn 231,3 nghìn, tăng mạnh 26,4% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân mỗi tháng có 25,7 nghìn doanh nghiệp gia nhập hoặc tái gia nhập thị trường.
Thương mại hàng hóa của nước ta tiếp tục giữ vững "phong độ", khi kim ngạch xuất nhập khẩu trong tháng 9 đạt 82,5 tỷ USD, đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp vượt mốc 80 tỷ USD - kỷ lục của hoạt động ngoại thương. Với mức này, kim ngạch thương mại quốc tế đã ghi nhận tăng trưởng gần 25% so với cùng kỳ.
Xét về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9 đạt 42,67 tỷ USD, giảm 1,7% so với tháng trước. Lũy kế hết 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 348 tỷ USD, vẫn tăng 16%.
9 tháng qua, có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD. Về cơ cấu, nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2025, nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 309,03 tỷ USD; tiếp theo là nhóm hàng nông sản, lâm sản đạt 29,51 tỷ USD; nhóm hàng thủy sản đứng thứ ba đạt 8,17 tỷ USD. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 85,41 tỷ USD, chiếm 24,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 263,33 tỷ USD, chiếm 75,5%.

Kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mức 80 tỷ USD tháng thứ ba liên tiếp
Nỗ lực duy trì đơn hàng xuất khẩu quý cuối năm
Theo tính toán của Bộ Công thương, với kết quả xuất khẩu đạt được 9 tháng đầu năm, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 12% xuất khẩu năm nay, mỗi tháng trong quý IV, kim ngạch xuất khẩu phải đạt trung bình 35 tỷ USD. Đây là một mục tiêu khả quan nếu lượng đơn hàng vẫn duy trì đều đặn như quý III. Tuy nhiên, theo chia sẻ của một số doanh nghiệp điện tử, dệt may, da giày, gỗ, tín hiệu đơn hàng trong quý IV đang chững lại. Vì vậy, họ đang phải tích cực chạy các đơn hàng lẻ, cơ cấu lại các dây chuyền sản xuất.
Từ phía các doanh nghiệp đã có sự chủ động đơn hàng và phía các cơ quan chức năng cũng đã có những sự hỗ trợ về thủ tục xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công thương đã đơn giản hóa thành phần hồ sơ 44/85 thủ tục hành chính và phân cấp thủ tục cấp C/O - chứng nhận xuất xứ hàng hóa về địa phương. Điều này được các doanh nghiệp đánh giá là kịp thời, giúp doanh nghiệp dồn lực cho sản xuất.
Ghi nhận lượng sản xuất đều đặn 5 - 6 triệu linh kiện ô tô mỗi tháng, doanh nghiệp cho biết, thời điểm cuối năm lượng đơn hàng cần giao vẫn đều đặn, kế hoạch sản xuất và xuất khẩu của doanh nghiệp càng thông suốt khi giấy chứng nhận xuất xứ hiện nay đã có thể nhận ngay tại địa phương.
Ông Lee Jung Youn - Giám đốc Chuỗi cung ứng, Công ty Huyndai Kefico cho biết: "Chúng tôi có 5 mẫu giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất đi 5 nước, việc lấy được giấy C/O tại địa phương rất thuận lợi, tiết giảm rất nhiều chi phí và đặc biệt là thời gian làm thủ tục xuất khẩu cho các lô hàng".
9 tháng đầu năm, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, mức thuế đối ứng 20% đã bắt đầu tác động lên tiến độ đặt hàng của các doanh nghiệp tại thị trường này ba tháng cuối năm - thông thường là mùa cao điểm nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Bà Trần Thị Thu Trang - Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc CTCP Công nghệ Thế hệ mới Hanel PT chia sẻ: "Chúng tôi tìm kiếm các doanh nghiệp Việt Nam và FDI tại Việt Nam để dần dần đưa tỷ lệ nội địa hóa lên cao và mình không bị phụ thuộc".
Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam nêu ý kiến: "Việt Nam chỉ chia sẻ được khoảng 3-5%. Phía các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ phải chịu đựng nhiều hơn và chắc chắn phải cần thời gian để người tiêu dùng Hoa Kỳ có thể quen với một mặt bằng giá mới".
Trong bối cảnh thị trường khá nhạy cảm những tháng cuối năm, Bộ Công thương khuyến nghị, một mặt doanh nghiệp cần thắt lưng buộc bụng, quản lý chặt chẽ nguyên liệu đầu vào để tiết kiệm chi phí sản xuất, mặt khác cần linh hoạt trong đàm phán hợp đồng để tránh được những điều khoản rủi ro liên quan tỷ giá, thời gian giao hàng.
Ông Nguyễn Anh Sơn - Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương nêu ý kiến: "Chúng ta phải có kế hoạch và hợp đồng dài hạn thường xuyên trao đổi với bạn hàng, liên hệ với các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tại thị trường đó để nắm bắt được diễn biến thương mại từ bây giờ đến cuối năm".
Bộ Công thương cũng đề xuất các địa phương sẵn sàng làm thủ tục thông quan hàng hóa, phê duyệt cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ngoài giờ hành chính trong đợt cao điểm để hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp kịp tiến độ các đơn hàng xuất khẩu.

Đã đến lúc Việt Nam cần tái cấu trúc chiến lược xuất khẩu
Xanh hóa chuỗi xuất khẩu, đáp ứng tiêu chuẩn thị trường
Tín hiệu đơn hàng chậm lại trong quý IV đã đặt ra một bài toán với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi yếu tố cạnh tranh về giá hiện nay khó có thể duy trì lâu dài. Theo Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, đã đến lúc Việt Nam cần tái cấu trúc chiến lược xuất khẩu, chuyển mạnh từ chiếm lĩnh thị trường bằng cạnh tranh về giá sang chiến lược xuất khẩu dựa trên thương hiệu, tiêu chuẩn cao và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, thiết kế, đậm văn hóa Việt. Đã đến lúc, các doanh nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung bình và công nghệ cao, sản phẩm chế biến sâu, có tiêu chuẩn xanh cao để thích nghi được với tiêu chuẩn xanh mà các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như châu Âu sẽ áp dụng từ năm 2026.
Doanh nghiệp dệt may có 17 xí nghiệp trên khắp cả nước và hiện nay, hơn 60% tất cả các xí nghiệp đã chuyển sang sử dụng nhiên liệu tái tạo để có thể thân thiện với môi trường. Mặc dù chi phí đầu tiên đầu tư khá nhiều, tuy nhiên, khi đi vào sử dụng và vận hành, đại diện doanh nghiệp cho biết đã tiết giảm rất nhiều chi phí như chi phí tiền điện hàng tháng, chi phí của các viên nén đốt lò than.
Ông Thân Đức Việt - Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10 chia sẻ: "Bắt buộc các nhà máy phải thay đổi điều kiện sản xuất của mình, dùng nguồn năng lượng xanh. Thứ hai, họ yêu cầu tỷ trọng khá lớn về thành phần tái chế trong sản phẩm của mình hay các sản phẩm có nguồn gốc từ hữu cơ từ nguyên liệu tạo ra thành phẩm thời trang".
Các doanh nghiệp cho biết, để đáp ứng được tiêu chuẩn châu Âu, không chỉ sản xuất mà cả quá trình vận chuyển hàng hóa ra cảng, từ cảng đến tay khách hàng châu Âu cũng cần đảm bảo lượng phát thải theo quy định của chính sách thuế carbon. Vì vậy, chuyển đổi xanh không còn là bài toán của từng mắt xích sản xuất riêng lẻ, mà trở thành bắt buộc với cả hệ thống cung ứng.
Ông Đoàn Trung Nguyên - Phó Giám đốc Cảng Nam Đình Vũ, TP. Hải Phòng nêu ý kiến: "Đầu tư hệ thống RTG, hệ thống cẩu STS tuyến biển và hệ thống RTG ở trong hậu phương hoàn toàn sử dụng điện 100% nên đã giảm thiểu rất nhiều phát thải khí nhà kính. Ngoài ra, trong thời gian tới, trong giai đoạn 3 sẽ đầu tư hệ thống điện bờ cho tàu".
Theo chia sẻ của các doanh nghiệp, rào cản lớn nhất hiện nay với doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa chuyển đổi xanh là vốn. Vì thế, rất cần những chính sách hỗ trợ đầu tư linh hoạt để sân chơi chuyển đổi xanh không chỉ là chỗ của các doanh nghiệp lớn.
Ông Trần Văn Nhơn - Tổng Giám đốc Intech Solar nhận định: "Quỹ đầu tư sẽ đầu tư trên mái của nhà máy và bán lại điện cho nhà máy với giá nhà máy đang mua của EVN rẻ hơn từ 10-20%, thậm chí lên đến 50%. Nhà máy hoàn toàn không phải bỏ vốn, quá trình vận hành, bảo trì bảo dưỡng hệ thống hoàn toàn do đơn vị tổng thầu và quỹ đầu tư triển khai".
Ông Lê Quang Vinh - Giám đốc Quản lý Kênh phân phối Sigenergy Việt Nam, Lào, Campuchia đưa ra ý kiến: "Đưa bộ lưu trữ vào để ban đêm khi lượng điện trên hệ thống điện dư thừa, chúng tôi tích vào đó phục vụ doanh nghiệp, để doanh nghiệp cất điện rẻ đi, ban ngày hoặc giờ cao điểm, doanh nghiệp phát ra, phục vụ phụ tải của họ".
Các doanh nghiệp cũng kỳ vọng Bộ Công thương sớm ban hành một bộ quy chuẩn xanh, từ đó làm kim chỉ nam để các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi liên quan đến thuế phí. Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng kỳ vọng sớm có quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh và hình thức tiếp cận linh hoạt, để doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô nhỏ và vừa không bị bỏ lại phía sau.
Trong bức tranh kinh tế toàn cầu đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng xanh và bền vững, chính sách thuế carbon, đặc biệt là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) sẽ được áp dụng từ tháng 1/2026 với nhiều nhóm ngành hàng chủ lực.
Thuế carbon hay CBAM hay các hàng rào xanh khác không còn là "nguy cơ" xa vời, mà đã trở thành "luật chơi chung" trong thương mại toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam buộc phải thích ứng, không chỉ để giữ thị trường xuất khẩu mà còn để đồng hành cùng xu thế phát triển bền vững của thế giới.
Bạn không thể gửi bình luận liên tục.
Xin hãy đợi 60 giây nữa.