Từ vị thế 80 năm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 40 năm đổi mới, với thế và lực mới, chúng ta đang chuẩn bị toàn diện: tầm nhìn và triết lý, hành chính và kinh tế, tổ chức và lực lượng, tư tưởng và tâm lý… để năm 2026 bước vào Kỷ nguyên mới, hành động với phương lược mới, gia tốc phát triển mới, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao trong tầm nhìn năm 2045.
Đó là thời cơ to lớn nhưng cũng đang là thách thức nặng nề.
Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu: “Tìm con đường ngắn nhất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.

Đó là thời kỳ thách thức và hóa giải mọi giới hạn phát triển, bằng cách nắm lấy thời cơ, xuất phát từ chính mình, với bản lĩnh tự tôn, tự trọng, tự cường và hành động quyết liệt; không thể rụt rè, do dự hay chờ đợi, cầu toàn, vì sự hùng cường và danh dự đất nước. Nó đòi hỏi về nghệ thuật xử lý thời và thế, mở tầm viễn kiến chiến lược, hoạch định quyết sách chính trị đúng đắn, tập hợp lực lượng đông đảo, tìm tòi hệ động lực phát triển phù hợp, đồng bộ và đủ mạnh, tạo ra tốc độ phát triển vượt bậc, nhịp bước cùng thời đại, trong tầm nhìn năm 2045.
Đó là khát vọng Việt Nam phú cường!
-------------------
Trong tổng thể phát triển đất nước, với tầm nhìn xa, hệ giá trị và mục tiêu phát triển, tiếp tục phát hiện, kiến tạo và thực thi một hệ thống động lực chiến lược đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và bước vào hàng ngũ các quốc gia phát triển.
Thực tiễn đã và đang hối thúc, không phát hiện và nắm lấy hệ động lực thì không có bất cứ sự phát triển đúng hướng, mạnh mẽ và bền vững nào như mong muốn.
Từ thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước, có thể hình dung:
Thứ nhất, động lực chính trị: Đảng vững mạnh - Nhà nước liêm chính - Nhân dân là trung tâm. Không có chính trị vững vàng thì không thể có phát triển bền vững. Đảng phải là hạt nhân sáng tạo, khai sáng và không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, cầm quyền; xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với ba trụ cột thực thi: Cải cách thể chế - Cải cách quản trị và Bộ máy tinh gọn, phục vụ Nhân dân thống nhất với phát triển lợi ích quốc gia trên nền móng khơi dậy và phát huy sức dân - trí dân - lòng dân thành lực lượng phát triển vô hạn.
Đó là nhân tố nền móng tạo thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, động lực con người và khát vọng dân tộc. Đặt con người Việt Nam vào trung tâm chiến lược phát triển, từ nguồn lực thành chủ thể sáng tạo. Khơi dậy khát vọng phú cường, cổ vũ tự tôn, tự cường, tự trọng dân tộc và tinh thần vượt mọi thách thức, mọi giới hạn trên đường phát triển. Đổi mới căn bản giáo dục, xây dựng con người trí tuệ, đạo đức và trách nhiệm.
Đó là trung tâm của tư duy và hành động của Đảng.
Thứ ba, động lực thể chế và pháp luật phát triển. Cải cách thể chế đồng bộ, minh bạch, hiệu quả. Thể chế hóa hệ giá trị Việt Nam hiện đại, như: dân chủ thực chất, pháp quyền nhân văn, quản trị công khai. Giảm can thiệp hành chính, tăng tính tự chủ cho doanh nghiệp, xã hội và các vùng lãnh thổ.
Đó là “bảo kiếm” lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ tư, động lực khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo kinh tế. Khoa học - công nghệ là trụ cột của nền kinh tế tự chủ và hiện đại hóa và kiến tạo thương hiệu quốc gia. Đầu tư mạnh mẽ và tương xứng vào chuyển đổi số, công nghiệp 4.0, AI, năng lượng sạch. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo từ giáo dục - doanh nghiệp - chính sách - con người.
Đó là sức mạnh động lực chủ yếu lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ năm, động lực văn hóa - đạo đức - bản sắc Việt Nam. Phát triển kinh tế đi đôi với phục hưng văn hóa dân tộc, không đánh đổi văn hóa lấy tăng trưởng; không hy sinh văn hóa sinh thái đổi lấy kinh tế… Tái lập trật tự giá trị - đạo đức công - liêm chính xã hội. Xây dựng văn hóa dân chủ, văn hóa pháp quyền, văn hóa đổi mới, văn hóa cống hiến. Không có văn hóa làm cốt lõi, không thể lãnh đạo, cầm quyền nhân văn, quốc gia không thể phát triển bền vững và uy tín.
Đó là nền móng và rường cột sức mạnh và uy tín lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ sáu, động lực hội nhập và phát triển có bản sắc. Chủ động hội nhập toàn diện, nhưng trên nền tảng độc lập tự quyết, vì lợi ích dân tộc với bản lĩnh Việt Nam. Xây dựng một Việt Nam đối tác tin cậy - thành viên tích cực - trung tâm kết nối khu vực và thế giới; góp phần xây dựng trật tự thế giới đa cực - dân chủ - bền vững nhằm nâng cao Quốc thể, sức mạnh và uy tín quốc gia trên trường quốc tế.
Đó là sự tiếp nối vai trò, sức mạnh lãnh đạo, cầm quyền bên ngoài quốc gia của Đảng.

-----------------
Trước thềm Kỷ nguyên mới, một cách tất yếu, việc đổi mới nền hành chính quốc gia, trước hết là sắp xếp, sáp nhập các bộ, ngành song hành với đổi mới hệ thống các tỉnh, thành phố là việc rất quan trọng trong kiến tạo và thực thi hệ thống nền hành chính quốc gia 3 cấp (Trung ương, tỉnh - thành phố và cơ sở (xã, phường….), theo yêu cầu phát triển mới. Đó là một trong những nhân tố có ý nghĩa toàn cục quyết định thành công của Kỷ nguyên mới; là một trong những quyết sách mang tầm chiến lược của Trung ương Đảng trước yêu cầu phát triển của đất nước.
Ngày 18/2/2025, xuất phát từ thực tiễn, thực hiện tinh gọn bộ máy, Quốc hội thông qua Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa 15. Và, ngày 16/6/2025, trên cơ sở xin ý kiến toàn dân, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi), xác lập mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã) thống nhất trong toàn quốc.
Cả nước có 14 bộ và 3 cơ quan ngang bộ, 34 tỉnh, thành phố và 3.321 xã.
Và, ngày 01/7/2025 đánh dấu một bước phát triển mới, mở ra những không gian phát triển mới với nền hành chính quốc gia 3 cấp, đặc biệt hệ thống chính quyền địa phương 2 cấp.
Đây là lần đầu tiên sau gần 80 năm Nhà nước cách mạng Việt Nam, cuộc chuyển đổi mô hình chính quyền địa phương từ 3 cấp sang 2 cấp - một cuộc cách mạng trong cách mạng, mang tầm chiến lược, toàn diện, đồng thời mang tầm kiến tạo sâu sắc và động lực vận hành nền hành chính quốc gia thật sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp, hiện đại, tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả để giải quyết các trọng sự đưa đất nước vững vàng bước vào Kỷ nguyên mới.

------------------
Và, trong tầm nhìn tổng thể, chỉ trong 5 tháng, Đảng ta ban hành bốn quyết sách chính trị lớn như những động lực phát triển, gồm: Nghị quyết số 57 - NQ/TW, ngày 22/12/2024, về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 59 - NQ/TW, ngày 24/01/2025, về hội nhập quốc tế sâu rộng, nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; Nghị quyết số 66 - NQ/TW, ngày 30/4/2025, về đổi mới công tác lập pháp, hoàn thiện thể chế để tạo hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng, thúc đẩy phát triển; và Nghị quyết số 68 - NQ/TW, ngày 04/5/2025, về phát triển kinh tế tư nhân.
Có thể gọi đó là “bộ tứ chiến lược” kết tinh tầm nhìn, tư duy, tư tưởng và hành động mà Tổng Bí thư Tô Lâm gọi là “bộ tứ trụ cột”.
Nếu trong 40 năm đổi mới, Việt Nam luôn tăng trưởng đều, bình quân khoảng 6,4 - 6,5%, cao nhất năm 1995 là 9,54%, thấp nhất là 2,6% vào năm đại dịch 2021, thì để “tăng tốc, cất cánh”, cần phải vượt ngưỡng 8-10% và giữ vững đà này.
Đây là lý do vì sao Nghị quyết số 57 về khoa học công nghệ nhằm phát triển động lực tổng thể lại mang ý nghĩa chiến lược trong tầm nhìn năm 2045 đến vậy.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong năm nay và tăng trưởng hai con số từ năm 2026, đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao, nhất định phải bứt phá và tăng tốc phát triển toàn diện, đặc biệt tạo mọi điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài như Nghị quyết số 68 hoạch định. Đây là khu vực chiếm tỷ trọng lớn, giữ động lực quan trọng về tăng trưởng kinh tế nhưng đang đối mặt với nhiều rào cản về thể chế, pháp lý, môi trường kinh doanh.

TS Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Để hóa giải những “chướng ngại” đó, nhất định cần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế. Pháp luật là nền tảng để phát triển, nếu thể chế không tương thích, minh bạch và hiệu lực thì không thể tạo niềm tin và động lực cho doanh nghiệp, người dân và cả hệ thống chính trị hành động thống nhất và kỷ cương, tự do sáng tạo bằng thể chế phù hợp và hiệu quả.
Chúng ta phải kiến tạo thương hiệu kinh tế mạnh mẽ, đẩy nhanh quy mô, tốc độ và chiều sâu hội nhập quốc tế theo chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, càng phải đổi mới toàn diện các chính sách để xây dựng một hệ thể chế thông minh, linh hoạt và thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế rất quan trọng này; góp phần tạo ra môi trường thuận lợi, cổ vũ cho những điều mới mẻ, sáng tạo, dành cho các doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân sự tôn vinh xứng đáng hơn trên nền tảng pháp lý và đạo lý.
Theo đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế phù hợp mà Nghị quyết số 66 hoạch định nhằm khơi dậy, phát huy tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của tất cả mọi người, mọi khu vực trong phát triển kinh tế song hành với phát triển xã hội, xây dựng thương hiệu kinh tế quốc gia trong hội nhập quốc tế.
Nếu Nghị quyết số 66 được xem là kim chỉ nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, bao gồm cả việc ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo để rà soát, đồng bộ, chống chồng chéo về pháp lý thì Nghị quyết số 68 tiếp tục trả lời phải làm gì và làm như thế nào để khu vực kinh tế hiện đóng góp hơn 51% GDP và 55% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trở thành động lực phát triển quan trọng nhất, đưa nền kinh tế cất cánh trong tương lai? Trước mắt, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong năm 2025 và tăng trưởng hai con số từ năm 2026 đến năm 2045 không thể không mở đường về hệ thống pháp luật phát triển khu vực kinh tế này một cách xứng đáng và ngang tầm.
“Bộ tứ trụ cột” là nền tảng quan trọng cho một cuộc cách mạng phát triển mới, là bước hiện thực hóa khát vọng không chỉ bằng chính sách mà sâu sắc hơn, bằng tư duy phát triển hiện đại có ý nghĩa đột phá mới mẻ và thực chất, thúc đẩy phát triển đất nước bền vững và nhân văn. Đây là “tổ hợp” quyết sách có tính kiến tạo, thống nhất và phát triển tương hỗ một cách hệ thống và toàn cục như những trụ cột quan trọng có ý nghĩa động lực để tạo nên sức bật mới cho nền kinh tế xã hội, định vị Việt Nam trong thế giới.
Đó cũng là tầm nhìn, cương lĩnh hành động và động lực phát triển của đất nước bước vào Kỷ nguyên mới Việt Nam phát triển phú cường.

------------------
Lịch sử đang hối thúc nhưng cũng đang chuẩn bị vận hội và lực lượng cho dân tộc với vị thế và sức mạnh mới bước vào Kỷ nguyên mới trong tầm nhìn 100 năm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Không cuộc cách mạng hay cải cách nào dù ở trong bất cứ thời điểm nào không gặp khó khăn, thậm chí cả bất trắc và hy sinh. Đây thực sự là thách thức nghiệt ngã, thậm chí cả sự hy sinh to lớn đối với toàn dân tộc, hệ thống chính trị, có ảnh hưởng trực tiếp tới từng con người. Nhưng không thể không hành động một cách tổng thể, kiên quyết, sáng tạo, nhân văn và dũng cảm.
Đó là con đường ngắn nhất để đất nước phú cường, Nhân dân hạnh phúc và dân tộc nhịp bước cùng thời đại.
Bạn không thể gửi bình luận liên tục.
Xin hãy đợi 60 giây nữa.