Trong giai đoạn 2025 – 2035, ngành trồng trọt sẽ tập trung vào một số cây trồng chủ lực, có tiềm năng giảm phát thải cao như lúa, sắn, mía, cà phê, chuối…
Để nâng cao chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành đề án trồng trọt giai đoạn 2025-2035, nhằm đưa ngành vào quỹ đạo phát thải thấp, bảo đảm an ninh lương thực và nâng sức cạnh tranh của nông sản Việt. Theo đề án, đến năm 2035, lĩnh vực trồng trọt của Việt Nam sẽ góp phần giảm ít nhất 15% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với 2020.
Tất cả tỉnh, thành phải xây dựng ít nhất 1-2 mô hình sản xuất giảm phát thải có khả năng nhân rộng. Cả nước sẽ hình thành tối thiểu 15 mô hình thí điểm để phát triển tín chỉ carbon, đủ điều kiện tham gia thị trường quốc tế. Một nhãn hiệu quốc gia "Phát thải thấp" cũng sẽ được ban hành, áp dụng cho các sản phẩm trồng trọt đáp ứng tiêu chí về môi trường.
Một phần diện tích lúa kém hiệu quả sẽ chuyển sang cây trồng cạn giá trị cao hoặc kết hợp nuôi thủy sản. Các mô hình "một vụ lúa - một vụ màu" được khuyến khích để cải tạo đất và giảm phát thải. Với cây lâu năm, Bộ ưu tiên giống vừa cho hiệu quả kinh tế, vừa hấp thu carbon tốt.
Để triển khai hiệu quả Đề án sản xuất giảm phát thải trong ngành trồng trọt giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến 2050, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra 7 nhóm giải pháp trọng tâm: tập trung vào việc nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, xây dựng hệ thống dữ liệu, huy động nguồn lực tài chính, đào tạo – truyền thông và tăng cường hợp tác quốc tế.
Trước tiên là hoàn thiện thể chế, chính sách và công cụ quản lý, lồng ghép mục tiêu giảm phát thải vào quy hoạch ngành, đồng thời tăng cường phân cấp, giám sát và áp dụng công nghệ số trong theo dõi, đánh giá hiệu quả chương trình.
Về khoa học – công nghệ, ngành sẽ nghiên cứu, chuẩn hóa và chuyển giao các gói kỹ thuật canh tác phát thải thấp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, cảm biến, AI và tổ chức mô hình trình diễn để nhân rộng trong thực tiễn.
Trong tổ chức sản xuất, sẽ thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gắn với truy xuất nguồn gốc và tín chỉ carbon; khuyến khích mô hình hợp tác xã làm nòng cốt và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu.
Hệ thống dữ liệu phát thải được xây dựng, vận hành thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tích hợp với hệ thống đo lường - báo cáo - thẩm định (MRV) và kiểm kê khí nhà kính quốc gia.
Nguồn lực triển khai huy động từ ngân sách nhà nước, vốn tư nhân, tài trợ quốc tế và các chương trình khí hậu toàn cầu, ưu tiên đầu tư vào dữ liệu, đào tạo, mô hình thí điểm và công nghệ.
Công tác đào tạo và truyền thông tập trung vào phổ biến kỹ thuật, nâng cao nhận thức về tín chỉ carbon, kết hợp đào tạo nghề và truyền thông đại chúng.
Cuối cùng, ngành tăng cường hợp tác quốc tế về nghiên cứu, xây dựng dự án, chia sẻ kinh nghiệm và kết nối thị trường tín chỉ carbon, góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng phát thải thấp và bền vững.
Bình luận (0)