Hoạt động văn nghệ trong ngày Tết của đồng bào Hà Nhì
Sum vầy trong tình thương bản làng
Người Hà Nhì sinh sống nơi thượng nguồn sông Đà, thuộc xã Thu Lũm, tỉnh Lai Châu đang có cho mình một cái Tết riêng – Tết cổ truyền Khụ Sự Chà.
Với đồng bào nơi phên dậu cực Tây Tổ quốc, đây không chỉ là dịp vui xuân, sum vầy, mà còn là ngày lễ thiêng liêng để tạ ơn đất trời, cầu cho mùa màng tốt tươi, cuộc sống bình yên.

Thiếu nữ Hà Nhì thi làm bánh giày, loại bánh không thể thiếu trong ngày Tết.
Mỗi độ tháng Mười Một âm lịch, khi lúa trên nương đã được cất vào kho, bà con người Hà Nhì lại quây quần bên nhau chuẩn bị cho ngày Tết lớn nhất trong năm.
Tiếng gọi của trưởng bản Mé Gióng vang giữa núi rừng. Chỉ trong chốc lát, mọi người đã tập trung tại nhà văn hóa để họp bàn. Năm nay, do thời tiết khắc nghiệt, việc chăn nuôi của vài hộ gặp khó, cả bản thống nhất: nhà nào có lợn sẽ mổ chia cho hộ không có.
"Tết là của chung, ai thiếu gì thì bản cùng giúp", trưởng bản Mé Gióng nói. Chính từ tinh thần sẻ chia ấy mà Tết Khụ Sự Chà luôn diễn ra trong không khí ấm áp, đoàn kết – thứ tình cảm dung dị mà sâu sắc giữa núi rừng biên giới.


Ngày Tết, bà con Hà Nhì thường sắm những bộ quần áo đẹp nhất đi chơi.
Ông Chu Lù Ky, người cao tuổi trong bản, kể: "Tết cổ truyền là phong tục của cha ông để lại. Mỗi năm đến kỳ là phải ăn Tết, như để thêm tuổi, thêm sức khỏe, và cầu cho kinh tế ngày càng khá hơn. Trong ngày Tết, bà con tụ họp vui xuân, hát múa, anh em họ hàng mời nhau chén rượu, chúc nhau điều tốt lành. Ai ở xa về cũng được mời cơm, không ai bị quên trong ngày Tết".
Theo phong tục, Tết Khụ Sự Chà thường được tổ chức vào ngày Thìn của tháng 11 âm lịch và kéo dài trong 5 ngày. Mỗi nhà đều làm bánh dầy, bánh trôi, mổ lợn, gà để cúng tổ tiên – vừa là lời tạ ơn cho một năm mưa thuận gió hòa, vừa là mong ước cho năm mới mùa màng bội thu.

Mâm cúng tổ tiên của người Hà Nhì.
Giữ hồn Tết cổ truyền nơi thượng nguồn sông Đà
Đêm đầu tiên của Tết được coi là đêm giao thừa. Sáng mùng Một, khi sương còn phủ trắng những triền núi, người Hà Nhì rủ nhau đi lấy nước ở mó nước đầu bản. Họ quan niệm, lấy nước sớm là "lấy lộc" đầu năm – dòng nước mới tượng trưng cho nguồn sống dồi dào, mang lại may mắn suốt năm.
Sau lễ lấy nước, các gia đình làm mâm cỗ cúng tổ tiên và thần linh. Lễ vật là sản vật do chính tay họ làm ra: thịt lợn, gà, xôi nếp, rượu ngô.

Và mâm cơm tiếp khách trong ngày Tết của người Hà Nhì.
Già làng Lý Cá Lòng nói: "Truyền thống để lại như thế, năm nào đến kỳ thì phải ăn Tết. Nhà nào cũng làm mâm cỗ, dâng lên bàn thờ thịt, gan lợn, có nhà thêm gừng hay chè – tùy lòng thành. Không ai để thiếu lễ cúng tổ tiên".
Một phong tục đặc sắc vẫn được gìn giữ đến nay là tục xem gan lợn. Khi mổ lợn ăn Tết, người già sẽ xem hình dáng lá gan để đoán định mùa màng, sức khỏe và vận hạn của gia đình trong năm tới. Lá gan đỏ tươi, tròn đầy là điềm lành; nếu gan xỉn màu hay có vết, đó là lời nhắc phải cẩn trọng.
"Nhà nào mổ được con lợn to là dấu hiệu làm ăn khấm khá. Lợn ăn Tết phải được chăm kỹ từ đầu năm, có con nặng cả tạ. Đó là niềm tự hào của mỗi gia đình", ông Lý Cá Lòng nói thêm.

Trống, chiêng được gõ đi khắp bản lảng để xua đuổi những xấu xa.
Với người Hà Nhì, Tết không chỉ là dịp nghỉ ngơi mà còn là ngày lễ tạ ơn đất trời, rừng núi và nguồn nước – những gì đã nuôi sống bản làng qua bao thế hệ.
Họ tin rằng mọi vật đều có linh hồn, nên nghi lễ cúng thần rừng, thần đất, thần nước là cách thể hiện lòng biết ơn và cầu mong mưa thuận gió hòa. Nghi lễ ấy cũng là lời nhắc nhở thế hệ trẻ phải trân trọng thiên nhiên, bảo vệ rừng – nguồn sống của cộng đồng nơi phên dậu.

Thiếu nữ Hà Nhì ngồi ngoài hiên nhà trình tường kể chuyện sau 1 năm lao động vất vả.
Trong những ngày Tết, dù đi đâu, con cháu người Hà Nhì cũng trở về quê nhà để sum họp. Họ mang theo rượu, thịt, gà – những lễ vật giản dị nhưng chứa chan tình cảm – dâng lên ông bà, cha mẹ.
Bữa cơm đầu năm là dịp để mọi người quây quần, kể chuyện mùa vụ, chia sẻ kinh nghiệm trồng trọt, dạy dỗ con cháu sống tốt, giữ phong tục tổ tiên.
Sau bữa cơm, khắp bản làng rộn rã tiếng cười nói. Từ người già đến trẻ nhỏ, ai cũng diện trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Phụ nữ Hà Nhì mặc áo chàm, đính bạc, thêu hoa văn tinh xảo; đàn ông đội mũ vải, khoác áo chàm giản dị mà khỏe khoắn.

Một góc xã Thu Lũm, tỉnh Lai Châu nơi sinh sống của đồng bào Hà Nhì.
Tại nhà văn hóa hoặc bãi đất trống, các hoạt động văn hóa, trò chơi dân gian như tung còn, đẩy gậy, bắn nỏ diễn ra tưng bừng.
Chị Xì Lù Pư ở bản Pa Thắng nói: "Phụ nữ Hà Nhì chuẩn bị Tết, làm bánh, nấu cỗ và cũng là linh hồn của các điệu múa, trò chơi. Tết là dịp để mọi người gặp gỡ, vui chơi, gắn bó hơn".
Giữa tiếng khèn, tiếng trống rộn ràng, trai gái Hà Nhì tìm đến nhau qua ánh nhìn e ấp, những câu hát giao duyên. Sau mùa Tết, không ít đôi nên duyên vợ chồng.
Vì thế, Tết Khụ Sự Chà không chỉ là ngày hội văn hóa, mà còn là cái nôi của tình yêu, của sự cố kết cộng đồng.

Người dân Hà Nhì đi nghiền nguyên liệu để làm bánh ngày Tết
Gìn giữ nét đẹp giữa nhịp sống mới
Giờ đây, cuộc sống người Hà Nhì đang đổi thay từng ngày. Đường bê tông đã vào đến bản, điện sáng từng mái nhà, trẻ em được đến trường. Nhưng giữa đổi thay ấy, bà con vẫn giữ nguyên phong tục Tết cổ truyền của dân tộc mình.
Ông Pờ Lỳ Dì, Bí thư Chi bộ bản Tá Miếu, cho biết: "Chính quyền luôn khuyến khích bà con tổ chức Tết gọn gàng, vui tươi, tiết kiệm, loại bỏ hủ tục. Bà con giữ được nét truyền thống nhưng cũng hòa nhập cuộc sống mới. Mỗi năm, Tết Hà Nhì lại rộn ràng hơn, văn minh hơn".
Nhiều xã đã đưa hoạt động Tết Hà Nhì vào chương trình lễ hội văn hóa, tạo điều kiện để người dân giao lưu, quảng bá du lịch cộng đồng.

Tục xem gan lợn của người Hà Nhì.
Tết không chỉ là dịp sum họp nội bộ mà đã trở thành niềm tự hào văn hóa, minh chứng cho sức sống bền bỉ của các dân tộc vùng cao.
Khi ánh chiều buông xuống, sương trắng giăng khắp nương đồi, từ những mái nhà trình tường vàng sậm lại tỏa ra làn khói bếp ấm. Tiếng khèn, tiếng hát vang vọng giữa núi rừng như gọi xuân về sớm.

Tục lệ đốt khúc củi tại giường ngủ để xua đuổi tà ma của người Hà Nhì.
Tết Khụ Sự Chà của người Hà Nhì – dân tộc đầu tiên đón Tết ở Việt Nam – không chỉ là lễ hội, mà là biểu tượng của niềm tin, của lòng biết ơn và của sự cố kết cộng đồng.
Giữa nhịp sống hiện đại, khi nhiều phong tục đang dần phai nhạt, người Hà Nhì vẫn kiên định giữ hồn Tết sớm của mình như giữ lấy cội nguồn.
Từ nơi thượng nguồn sông Đà, mùa xuân của đất nước dường như cũng bắt đầu từ rất sớm – trong tiếng khèn gọi bạn, trong nụ cười nở rộ trên khuôn mặt rám nắng, và trong lòng người Hà Nhì luôn rực cháy niềm tin về một bản làng ấm no, yên vui nơi phên dậu Tổ quốc.
Bình luận (0)