Từ những ngày đầu lập quốc (tháng 9/1945), ngân khố Quốc gia gần như trống rỗng, đất nước cùng lúc đối mặt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. 80 năm sau, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ. Từ nguồn lực hạn hẹp, chỉ có 1,25 triệu đồng Đông Dương, nay đã trở thành quốc gia có quy mô ngân sách đạt 2,1 triệu tỷ đồng, tăng gần 100.000 lần so với thời kỳ đầu lập nước.
Trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986), Việt Nam đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng. Nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình với một nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ. Kinh tế tăng trưởng cao, liên tục và bao trùm, bảo đảm mọi người dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển.
"Sau 40 năm, quy mô kinh tế nước ta đã tăng gần 106 lần, đạt 476,3 tỷ USD vào năm 2024, đứng thứ 33 thế giới. GDP bình quân đầu người cũng tăng hơn 63 lần, lên mức 4.700 USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1987-2024 đạt 6,67%/năm, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia tăng trưởng cao của khu vực và thế giới", bà Nguyễn Thị Hương - Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính cho biết.
Việt Nam đã vươn lên trở thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới. Hiện Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 4 khu vực Đông Nam Á và thứ 34 trên thế giới.
Từ vị thế 80 năm Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 40 năm đổi mới, với thế và lực mới, chúng ta đang chuẩn bị toàn diện: Tầm nhìn và triết lý, hành chính và kinh tế, tổ chức và lực lượng, tư tưởng và tâm lý… để năm 2026 bước vào Kỷ nguyên mới, hành động với phương lược mới, với gia tốc phát triển mới, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao trong tầm nhìn năm 2045. Đó là thời cơ to lớn nhưng cũng đang là thách thức nặng nề.
Hóa giải mọi giới hạn phát triển và vượt qua thách thức, chúng ta phải nắm lấy thời cơ, xuất phát từ chính mình, với bản lĩnh tự tôn, tự trọng, tự cường và hành động quyết liệt, không thể rụt rè, do dự hay chờ đợi, cầu toàn, vì sự hùng cường và danh dự đất nước. Nó đòi hỏi về nghệ thuật xử lý thời và thế, mở tầm viễn kiến chiến lược, hoạch định quyết sách chính trị đúng đắn, tập hợp lực lượng đông đảo, tìm tòi hệ động lực phát triển phù hợp, đồng bộ và đủ mạnh, tạo ra tốc độ phát triển vượt bậc, nhịp bước cùng thời đại, trong tầm nhìn năm 2045.
Và "Bộ tứ trụ cột" Nghị quyết được xem là lợi hiệu triệu cho một giai đoạn phát triển mới trên trí tuệ, đổi mới và khát vọng, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chiến lược phát triển quốc gia, truyền cảm hứng, tạo niềm tin cho tương lai đất nước.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, bốn Nghị quyết của Bộ Chính trị đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước. Dù mỗi Nghị quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu song có sự liên kết chặt chẽ, bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện.
"Sự liên kết này không chỉ mang tính chất định hướng chung mà còn thể hiện rõ sự phục thuộc lẫn nhau trong thực tiễn. Nếu thể chế không minh bạch thì kinh tế tư nhân khó phát triển. Nếu đổi mới sáng tạo không đột phá, kinh tế tư nhân sẽ yếu, hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế. Nếu hội nhập không chủ động, bản thân thể chế và các động lực trong nước khó được cải cách một cách toàn diện.
Điểm đột phá của cả 4 Nghị quyết là tư duy phát triển mới, từ quản lý sang phục vụ, từ bảo hộ sang cạnh tranh sáng tạo, từ hội nhập bị động sang hội nhập chủ động. Từ cải cách phân tán sang đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc. Đây là những bước chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu trong kỷ nguyên mới", Tổng Bí thư cho biết.
Anh Nguyễn Trung Dũng, kinh doanh hàng ăn đã hơn 20 năm, mỗi lần muốn mở thêm cơ sở mới, điều anh ngại nhất là thủ tục hành chính khó khăn. Nhưng với Nghị quyết 68, giờ tâm lý đã khác, anh tự tin mở rộng chuỗi cửa hàng.
"Tôi thấy có một sự quyết tâm rất lớn từ Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân. Các cơ sở kinh doanh nhỏ như chúng tôi cảm thấy yên tâm, có thể phát triển tốt hơn nữa", anh Nguyễn Trung Dũng, Giám đốc Phát triển Công ty dịch vụ Thương mại Công nghệ Hương Mai cho biết.
"Như nắng hạn gặp mưa rào" là phát biểu của một doanh nghiệp khi nhận xét về Nghị quyết 68. Quá trình phát triển kinh tế tư nhân sau 40 năm đổi mới từ khởi đầu với các nhìn dè dặt với kinh tế tư nhân cho đến những nút thắt dần dần được tháo gỡ. Song biến chuyển thời cuộc đã khiến "chiếc áo thể chế" phát triển kinh tế tư nhân trở nên chật hẹp.
Với Nghị quyết 68, lịch sử mới đã được mở ra khi kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, để những doanh nghiệp tư nhân trở lại vị trí xứng đáng thay vì phải lo lắng giải quyết những vướng mắc trong bối cảnh "thương trường như chiến trường".
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành, Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho biết, những "căn bệnh" có tính chất hệ thống, rào cản vướng mắc nhiều năm qua sẽ thay đổi với Nghị quyết 68. Cộng đồng doanh nghiệp xem Nghị quyết 68 như một cuộc cách mạng về nhận thức, tư tưởng đối với câu chuyện cởi trói về mặt thể chế, mặt luật pháp cho kinh tế tư nhân có thể tự tin hoạt động. Cũng như trao cho kinh tế tư nhân định hướng phát triển rõ ràng trong bối cảnh mới.
"Chúng tôi nhận được tin nhắn từ các công ty khởi nghiệp miền Tây Nam bộ, miền Trung cho biết nếu như thế này "vất vả mấy cũng cam lòng". Sự chân thành này đủ thể thấy tinh thần của Nghị quyết 68 đã tác động mạnh mẽ thế nào đến tâm tư tình cam trái tim của những người doanh nhân", bà Phạm Thị Ngọc Thuỷ cho biết.
Trong khi Nghị quyết 68 được xem là sự đột phá cho kinh tế tư nhân, thì Nghị quyết 57 về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh Trần Hoàng Ngân đánh giá là động lực tiên quyết, quan trọng để kinh tế Việt Nam tăng tốc phát triển trong thời gian tới.
"Để có thể tăng trưởng 2 con số từ năm 2026 trở đi thì phải dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo", ông Ngân nhấn mạnh.
Nói về Nghị quyết 57, Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ Bùi Thế Duy cho biết, Nghị quyết lần này chọn cách đi vào điểm nghẽn thể chế, cũng như những vấn đề rất mới của thời đại: Big Data, AI, Blockchain, IoT… để thúc đẩy trong thời gian ngắn nhất, những sản phẩm công nghệ mới nhất, các sản phẩm công nghệ chiến lược nhanh chóng đưa vào cuộc sống.
Nói về những điểm nghẽn trong phát triển khoa học công nghệ, bà Phạm Thị Ngọc Thủy cho biết, trong nhiều dịp trao đổi với các nhà khoa học, nhiều người nói rằng ngoài việc bỏ chất xám, trí tuệ để nghiên cứu phát triển các giải pháp khoa học công nghệ thì việc thu thập các bảng kê, hóa đơn chứng từ để thanh quyết toán là một vấn đề rất lớn.
"Trước đây có quỹ khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp, nhưng lập ra gần như không chi được vì quy trình phức tạp. Song giờ mọi chuyện sẽ được cởi trói, các nhà khoa học sẽ tập trung vào cống hiến về mặt trí tuệ, doanh nghiệp tập trung vào chi tiêu thực chất để đầu tư", bà Thuỷ cho biết.
Một điểm đột phá khác trong tinh thần của Nghị quyết 57 là cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu phát triển khoa học, đổi mới sáng tạo. Trước đây, những nhiệm vụ nghiên cứu được Nhà nước giao, tài trợ phải thành công 100%, nếu không thành công thì được coi là lãng phí.
Nhưng với Nghị quyết 57, các quy định được thiết kế theo hướng khuyến khích các nhà khoa học dám nghĩ dám làm, dám nhận nhiệm vụ, nếu có rủi ro thất bại thì được miễn trừ trách nhiệm.
"Các nhà khoa học rất phấn khởi. Trong đổi mới sáng tạo, nghiên cứu mới không phải cái nào cũng thành công, cần chấp nhận rủi ro, có thể là thất bại. Chúng ta chấp nhận thất bại đó, không để người nghiên cứu chịu trách nhiệm về vấn đề này. Song hành với đó là cơ chế hậu kiểm, giám sát để tránh lợi dụng quy định này", đại biểu Trần Hoàng Ngân nói.
Thời gian qua, thể chế đã nhiều lần bị "đổ lỗi" cho sự trì trệ, chậm đổi mới, kém phát triển. Trong tương lai, điều này sẽ không còn với Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Nghị quyết được ban hành nhằm giải quyết những vướng mắc trong thể chế, một trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay (cùng với hạ tầng và nhân lực). Thậm chí thể chế được xem là điểm nghẽn của điểm nghẽn.
Với Nghị quyết 66, Đảng rất quyết tâm tháo gỡ, để thể chế pháp lý không phải sợi dây do chúng ta tạo ra để trói chính chúng ta, mà phải giúp giải phóng sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, tận dụng mọi cơ hội để phát triển.
Trong Nghị quyết 66, chủ trương sẽ quy định những vấn đề khung có tính nguyên tắc trong các luật, nghị quyết. Còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao cho Chính phủ, Bộ ngành, địa phương để đảm bảo linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.
"Hiện nay có nhiều vấn đề biến đổi nhanh theo thực tiễn, nếu quy định cụ thể trong luật thì "tuổi thọ" của luật sẽ rất ngắn. Cùng với đó việc chờ quy trình sửa luật rất lâu cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung", đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga cho biết.
Theo đại biểu Bùi Hoài Sơn, chúng ta xây dựng xây dựng hệ thống các luật khung, luật ống, tại đây sẽ định hướng các xử lý về mặt luật pháp nhưng đồng thời không bó cứng ở những chi tiết cụ thể. Việc chi tiết sẽ được cụ thể hoá tại các nghị định và thông tư, giúp tạo ra khuôn khổ pháp lý đủ rộng, đủ thông thoáng, nhưng cũng để chặt chẽ tạo thuận lợi cho các lĩnh vực của đời sống.
Liên quan đến quan điểm dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm", bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành, Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho biết khi triển khai những cái mới thường gặp những rủi ro, soi sét, rắc rối.
Tinh thần dứt khoát bỏ tư duy "không quản được thì cấm" được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá vô cùng quan trọng. Nó thực sự nhất quán, nhấn mạnh hơn nữa chủ trương cải cách và đột phá của Đảng trong thời gian tới.
Nói về tinh thần này, đại biểu Trần Hoàng Ngân cho biết, chúng ta đang chuyển từ thể chế quản lý sang phục vụ. Không chỉ thể chế mà đội ngũ phục vụ, cán bộ, công chức, viên chức cũng phải chuyển sang trạng thái phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, nhanh hơn.
Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới là trụ cột cuối cùng trong "Bộ tứ trụ cột". Theo bà Phạm Thị Ngọc Thủy, đây là mảnh ghép vô cùng quan trọng, khi Nghị quyết 68 tập trung vào lượng, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 66 tập trung vào chất thì Nghị quyết 59 giống như sự thay đổi về tâm thế, vững vàng, tự tin và chủ động hơn.
Tinh thần của Nghị quyết 59, nhất quán với ba Nghị quyết trên bởi khi một quốc gia, tổ chức hay doanh nghiệp đã có sự đầu tư về mặt nội lực, thay đổi về mặt chất thì cách ứng xử với bên ngoài phải có sự thay đổi tương ứng.
Theo đại biểu Trần Hoàng Ngân, thời gian qua, thu hút đầu tư nước ngoài, kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu. Do đó trong thời gian tới phải lưu ý đến điểm này.
"Thu hút vốn FDI cần có chọn lọc ở những lĩnh vực trong nước chưa có điều kiện phát triển mạnh như công nghệ cao, AI…", ông Ngân đề xuất.
Trong khi đó, ông Mạc Quốc Anh, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội cho rằng, trong quá trình hội nhập cần chủ động về thị trường, nguyên liệu, tiếp cận các nhà đầu tư… Trong hội nhập, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh trên "sân nhà" mà còn cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
"Với hơn 16 hiệp định thương mại song phương, đa phương, là thành viên của WTO, để tận dụng cơ hội này, các doanh nghiệp cần có phương án, giải pháp, xây dựng tầm nhìn trung hạn và dài hạn. Tận dung cơ chế tài chính, quỹ đầu tư… thì việc hội nhập quốc tế sẽ thành công", ông Mạc Quốc Anh cho biết.














Bình luận (0)